Phong thủy để xây mộ trạch cho gia tiên
Âm trạch chính là đất táng cho ông bà cha mẹ, mưu đồ cho con cháu về sau này, vong linh luôn được yên ổn thì con cháu mới thành đạt phát tài. Người khi họ xem âm trạch tức là gốc còn dương trạch là nhánh ngọn, cần chăm lo mộ phần chu đáo cẩn thận.
Chính vì thế việc cần tìm vị trí đất tốt để chôn cất người đã chết, chẳng khác gì với người sống tìm cho mình đất để cất nhà. Thế đất tốt được dùng cho âm trạch là nơi thoáng mát khô ráo sạch sẽ không bị ô uế, trong “Lã Giám – Tiết tang thiên” có viết:
+ Khi chôn cạnh thì hay bị cầy cào bới ăn xác, chôn sâu chạm với nguồn nước mạch, chính vì vậy cần phải chôn ở trên gò đất cao, tránh nạn cầy cáo và đầm nước ngầm, xác sẽ mau được phân hủy thối rữa là không thích hợp
Khi mới có tục chôn chất được hình thành thì người xưa thường chôn cất người chết quay mặt theo hướng Nam hoặc chết mặt về hướng Tây.
Tại Bán Pha, Tây An từ thời văn hóa Ngưỡng Thiêu – thì nền văn hóa cổ đại ở lưu vực sông Hoàng Hà, thời đồ đá mới có 250 ngôi mộ đều được quay mặt theo hướng Tây.
Tại Myanmar, có tới 200 ngôi mộ ở thời Xuân Thu đều được quay về hướng Nam, chân thì xuôi theo hướng Bắc. Có một phát hiện thấy tại Hà Nam có tới 114 ngôi mộ ở thời kỳ đồ đá đầu đều được quay về hướng Tây – Tây Nam.
Còn ở thời Minh – Tống bên Hồng Kong, người ta đã làm quan tài dây tới 3 tấc để xác có thể phân hủy lâu hơn, áo liệm đến 3 lớp đủ để che đậy. Khi chôn chất thì phía dưới của áo quan tài không có nước, phía trên không thông với mùi xú uế có trên mặt đất.
Trong luật phong thủy cho rằng, khi chôn cất người chết đầu chếch về hướng Tây hay Tây Nam, chôn sâu mà không bị đụng đến mạch ước ngầm là điều tốt nhất.
Khi mai táng một huyệt mộ với một lý do nào đó, ngoài việc cần tìm đất mai táng tốt, thần dân cần phải có chút hiểu biết để thực hiện tốt việc mai táng này. Thường muốn mai táng cho một ngôi mộ, thì ít nhất cũng phải sau 3 năm kể từ ngày bắt đầu chôn cất, bởi khi đó thì mùi tử khí không còn bị ảnh hưởng đến môi trường và cũng là đạo lý trong tập quán của người Việt chúng ta xưa kia.
Trước đây có rất ít người chịu cải táng phần mộ của ông bà cha mẹ, bởi họ sợ bị động vào long mạch, số người còn lại thì họ lại có những lý do khác nhau để cải táng như:
+ Cha mẹ chết lúc gia đình còn nghèo làn không đủ tiền mua những bộ cỗ áo quan tốt, nên đời 3 năm sau họ xin được cải táng lại, kẻo áo quan lâu ngày bị hư nát có hủy hại đến di hài, mất phần phúc đúc, sợ tổ tiên quở trách.
+ Tại nơi chôn cất có mối, kiến, sụp lở bởi dòng nước ngầm.
+ Nhờ thầy phong thủy xem lại phần thế đất, hay thấy phần mộ nhà mình bị sụp lở hoặc bị cây cối đang trông trên mộ tự nhiên khô héo bất thường.
+ Còn lý do khác theo mê tín, trong gia đình có người đâm loạn hay bị điên khùng, đau ốm liên mien, gia đình thường bị tai tiếng thị phi, kiện tụng thì cho là đất đang tang bị động.
+ Có người cầu mong cho đường công danh phú quý cho gia đình, nhờ thầy địa lý tìm tới nơi cát đại mà cải táng lại mộ phần của thân dân.
+ Có người vì thấy mộ phần gia đình khác phụ hộ cho làm ăn trở nên khấm khá, cho là đất ở nơi ấy kết phát nên đã cải táng thân nhân về gần với những ngôi mộ đẹp bên cạnh để được hưởng chút dư huệ.
+ Ngoài ra còn có những nguyên nhân khách quan khác, như việc chuyển nghĩa trang ra khỏi thành phố, khu đất được quy hoạch,….
Đối với gia đình khi cải táng thường gặp phải những điều sau đây thì không nên cải táng nữa sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến gia chủ:
+ Một : Khi đào mả thấy trong huyệt có con rắn vàng đang sinh sống cho là điềm cát tường (Long xà khí vật).
+ Hai : Khi mở nắp quan tài thấy có dây tơ hồng quấn quít thì cho rằng đất kết.
+ Ba : Khi hơi đất chỗ quan tài ấm áp, không có nước, khô ráo hoặc có nước đọng như màu sữa là tốt. Khi gặp những điều trên đây phải đắp mả lại ngay.
Trước khi cải táng mộ mả thì gia đình cần tổ chức lễ cáo đường nơi thờ tự. Đến khi động đất cải táng, thêm chút lễ xin thổ thần cho hài cốt người thân di dời tới nơi khác.